MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA MẬT SỐ VI SINH VÀ CHẤT THẢI TRONG AO

23 THG23
4183 lượt xem

1. GIỚI THIỆU

- Trừ các thuỷ vực bị nhiễm bẩn bởi chất thải sinh hoạt và công nghiệp, môi trường nước tự nhiên ở đa số các thuỷ vực mở có số lượng vi khuẩn dao động trong khoảng 10^4-10^6 CFU/mL. Về mặt thành phần giống loài của vi sinh vật trong các thuỷ vực nói chung và trong các ao nuôi thuỷ sản khác nhau cũng hoàn toàn khác nhau. Một số nhóm có ảnh hưởng có lợi như tăng cường khả năng tiêu hoá của tôm cá, tăng khả năng hấp thu chất dinh dưỡng của các sinh vật bậc cao. Những nhóm có hại chuyên ký sinh trên các sinh vật bậc cao, gây ra một số bệnh có thể làm chúng chết hàng loạt hoặc làm giảm sức sống và tăng trưởng được gọi là các sinh vật gây bệnh. Bên cạnh hai nhóm trên còn có những vi sinh vật không gây ảnh hưởng gì đáng kể đến các nhóm sinh vật khác và được gọi là nhóm trung tính. Môi trường ao nuôi thuỷ sản là nơi lý tưởng cho sự phát triển của vi sinh vật nói chung và vi khuẩn nói riêng. Sự cung cấp thức ăn cho tôm cá tạo nên nguồn carbon dồi dào cho sự phát triển của các nhóm vi sinh vật trong ao trong suốt quá trình nuôi nên mật số vi sinh vật cũng cao hơn trong trong các thuỷ vực tự nhiên (10^5-10^7 CFU/mL). Sự vượt trội về số lượng của nhóm vi sinh vật có lợi sẽ giúp nâng cao năng suất nuôi trong khi nhóm vi sinh vật có hại phát triển vượt trội sẽ gây nên dịch bệnh cho tôm cá gây tổn thất cho người nuôi.

 

- Trong tự nhiên, sự phát triển của các nhóm vi sinh vật trong môi trường hầu như là ngẫu nhiên. Đối với các hệ thống nuôi thuỷ sản, sự tác động của con người như khử trùng hệ thống nuôi, loại bỏ chất thải, sử dụng hoá chất hay thuốc phòng trị bệnh, v.v… với mục đích chủ yếu là hạn chế sự xâm nhập và phát triển của các vi sinh vật gây bệnh cho tôm cá nuôi. Tuy nhiên, các biện pháp này có nhược điểm là làm mật số vi sinh vật trong các hệ thống nuôi giảm xuống, cả vi sinh vật có hại lẫn có lợi. Sau khi tác động này chấm dứt, quần xã vi sinh vật sẽ phục hồi và sự phát triển vượt trội của các nhóm vi sinh vật này cũng là ngẫu nhiên. Trong ao nuôi các vật chất hữu cơ không ngừng bị phân hủy bởi các vi sinh vật. Chúng sử dụng các hợp chất hữu cơ để thu nhận các tiền chất cho việc xây dựng nên các tế bào của mình và thu năng lượng cho các hoạt động sống. Khi ấy, hợp chất hữu cơ được vi sinh vật biến đổi thành các chất nghèo năng lượng và cuối cùng trong những điều kiện thích hợp thì chuyển hóa ngược trở lại thành các chất vô cơ ban đầu. Vô cơ hóa các hợp chất hữu cơ là chức năng chủ yếu của vi khuẩn và nấm trong việc biến đổi vật chất trong thủy vực. Nhờ thế mà các thuỷ vực không bị nhiễm bẩn do chất hữu cơ tích tụ và vật chất luôn được đưa trở lại vòng tuần hoàn trong thủy vực, tạo nên sự sinh trưởng mới của thực vật. Nếu không có các vi sinh vật phân huỷ hữu cơ này thì toàn bộ quá trình chuyển hoá vật chất trong thuỷ vực sẽ bị ngừng lại và sự sống sẽ không thể tồn tại được. Sự vô cơ hóa hoàn toàn vật chất hữu cơ nói chung chỉ diễn ra khi có mặt oxy, tức là trong các thủy vực thoáng khí, còn trong những điều kiện yếm khí thì sự phân hủy thường diễn ra không hoàn toàn.

2. VI SINH VẬT VÀ CÁC QUÁ TRÌNH PHÂN HỦY CHẤT THẢI HỮU CƠ

- Trong ao nhất là ao nuôi tôm hàm lượng đạm thường rất cao. Do vậy quá trình amon hóa protein giữ vai trò quan trọng trong việc chuyển nitơ từ dạng khó hấp thu (hữu cơ) sang dạng muối amôn dễ được thực vật sử dụng và giúp làm sạch các thuỷ vực. Nhờ quá trình này mà NH4 luôn luôn được phục hồi, cung cấp dinh dưỡng cho thực vật thủy sinh. Nhiều vi sinh vật trong thuỷ vực như vi khuẩn, nấm mốc và một số xạ khuẩn tham gia vào quá trình này, chủ yếu là các loài vi khuẩn thuộc các giống Bacillus, Pseudomonas, Clostridium như Bacillus mesentericus, B. mycoides, B. subtilis, Pseudomonas flourescens, Clostridium sporogenes... và các vi nấm như Aspergillus oryzae, A. niger,... Số lượng của chúng trong các thủy vực khác nhau thì rất khác nhau, thường trong các thủy vực nước ngọt số lượng của chúng nhiều hơn các thủy vực nước lợ, mặn. Nhiệt độ tối ưu cho sự amôn hóa là từ 25 - 30°C.
- Trong môi trường yếm khí với sự có mặt của các hydrat carbon sẽ xảy ra quá trình ngược lại với quá trình nitrate hóa, quá trình phản nitrate hóa. Quá trình này khử nitrate qua nitrite thành nitơ oxyt (NO, N2O), hydroxylamine (NH2OH), ammonia (NH3), nitơ phân tử (N2). Vi khuẩn tham gia vào quá trình phản nitrate hóa trong thuỷ vực bao gồm các loại kỵ khí không bắt buộc như: Bacillus, Pseudomonas, Micrococcus... Trong điều kiện hiếu khí, chúng oxy hóa các chất hữu cơ bằng oxy của không khí, còn trong điều kiện kỵ khí, chúng tiến hành oxy hóa các hợp chất hữu cơ bằng con đường khử hydro để chuyển hydro cho nitrate và nitrite.
5C6H12O5 + 24KNO3 -> 24 KHCO3 + 6CO2 + 18H2O + 12N2

 


 

- Trong tự nhiên, quá trình này không có lợi vì nó làm mất nitơ trong thủy vực và tạo thành các chất độc đối với thủy sinh vật như NH3, NO2-. Trong đa số sinh cảnh, vi sinh vật chỉ có thể khử nitrate thành nitrite, chứ không có thể khử tiếp thành các dạng hợp chất khác. Do đó, ở đâu có quá trình phản nitrate hóa xảy ra mạnh thì ở đó có nhiều nitrite. Điều này cần được chú ý trong các ao nuôi thâm canh nếu không được cung cấp oxy đầy đủ sẽ sản sinh ra nhiều chất khí độc ở đáy ao.
- Trong vài nghiên cứu về chất lượng nước đã được báo cáo, trong suốt thời gian bổ sung probiotics, đặc biệt Bacillus sp. nhận thấy rằng Bacillus sp. Gram dương (+) thường chuyển vật chất hữu cơ sang CO2 tốt hơn vi khuẩn gram âm (Stanier et al., 1963). Đó là lý do duy trì mật độ vi khuẩn Gram-dương cao hơn trong ao, người nuôi có thể hạn chế tối đa sự tích tụ chất hoà tan và carbon hữu cơ trong suốt quá trình nuôi, trong khi quan sát sự ổn định của thực vật thuỷ sinh bằng cách tăng hàm lượng CO2 (Scura, 1995). Vài nghiên cứu đã kết luận rằng khi sử dụng một hoặc hai loài vi khuẩn như Bacillus sp., Nitrobacter sp., Pseudomonas sp., Enterobacter sp., Cellulomonas sp. và Rhodopseudomonas sp. trong nuôi tôm sẽ tốt hơn.

 

3. MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA MẬT ĐỘ VI SINH VÀ CHẤT LƯỢNG NƯỚC TRONG AO

- Trong nghiên cứu của PGS. TS. PHẠM THỊ TUYẾT NGÂN (2012) về biến động của quần thể vi khuẩn chuyển hóa đạm trong bùn đáy ao nuôi tôm sú thâm canh ở Sóc Trăng cho thấy hầu hết các chỉ tiêu môi trường nước (TSS, COD, TAN, NO2, NO3…) tăng dần theo thời gian nuôi. Tương tự sự biến động các chỉ tiêu chất lượng nước, mật độ vi sinh trong ao cũng tăng dần. Vi khuẩn dị dưỡng tổng cộng dao động từ 10^4-10^6 CFU/g. Bacillus dao động 10^4 - 10^5 CFU/g có khuynh hướng ổn định trong suốt vụ nuôi. Nitrosomonas dao động 7 - 2,6 × 10^3 MPN/g. Nitrobacter có mật độ thấp nhất và dao động từ 5,5 - 1,9 × 10^3 MPN/g và tổng Vibrio có khuynh hướng tăng dần từ đầu vụ đến cuối vụ và dao động từ 2,1 × 10^2 - 1,5 × 10^5 CFU/g. Kết quả thí nghiệm cũng cho thấy trong nuôi tôm thương phẩm (trên bể và trong ao) sự tích lũy hàm lượng chất hữu cơ có thể làm giảm bằng cách bổ sung vi khuẩn Bacillus, nếu bổ sung với mật độ thích hợp, vi khuẩn Bacillus sẽ kích thích nhóm vi khuẩn nitrate hóa (NitrosomonasNitrobacter) phát triển nhanh hơn do Bacillus tạo ra sản phẩm NH4+/NH3 làm nguồn dinh dưỡng cho Nitrosomonas và NO2- là nguồn dinh dưỡng cho nhóm Nitrobacter. Tỉ lệ sống của tôm khi bổ sung Bacillus cao nhất (93,3%), còn đối chứng thấp nhất (69,5%). Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối trọng lượng cao nhất ở (16 g/con), trong khi đó ở nghiệm thức không bổ sung Bacillus là thấp nhất (5,2 g/con). Các loài vi khuẩn này sau đó được định danh bằng các chỉ tiêu sinh lý, sinh hóa và giải trình tự gen là Bacillus cereus, B. amyloliquefaciens B. subtilis. Hai loài vi khuẩn nitrate hóa Nitrosomonas nitrosaNitrobacter winogradskyi cũng đã được xác định.

- Một nghiên cứu khác trong khuôn khổ đề tài cấp tỉnh Sóc Trăng do THS. LÂM NGỌC TÚ thuộc trung tâm ứng dụng tiến bộ và KHCN làm chủ nhiệm (do sở KHCN Sóc Trăng chủ trì) được thực hiện tại viện NTTS 2 do THS. VÕ MINH SƠN đã cho thấy nếu so sánh ao nuôi tôm thẻ không sử dụng Probiotic và có sử dụng sản phẩm chứa các loài vi khuẩn Bacillus, Lactobacillus, nấm men Sacharomyces, Rhodopseudomonas, Thiobacillus NitrosomonasNitrobacter thì mật độ vi sinh và chất lượng nước rất khác nhau được thể hiện trong bảng sau:

 

 

4. KẾT LUẬN

- Nói chung mật độ vi khuẩn sẽ tăng khi chất thải tăng. Nếu không kiểm soát chất thải thì có thể tạo điều kiện cho vi khuẩn cơ hội phát triển và nguy cơ dịch bệnh khó tránh khỏi. Một số giải pháp như kiểm soát nitrogen bằng công nghệ Biofloc hoặc bằng vi khuẩn yếm khí Annamox đã được chứng minh có nhiều ưu điểm. Các kỹ thuật này sẽ được thảo luận trong những bài viết tiếp theo.

 

Bản tin kỹ thuật số 04 Dành cho TÔM - Công ty TNHH VIBO

Mời bà con cùng đọc và chia sẻ bản tin nhé !!!

Ý kiến bạn đọc

Các tin khác

03 THG12

BỔ SUNG KHOÁNG CHO TÔM VÀ CÁC VẤN ĐỀ GẶP PHẢI VÀO MÙA MƯA

Khoáng chất rất quan trọng đối với tôm nuôi vì chúng tham gia vào quá trình sinh hóa, hỗ trợ phát triển cơ thể, lột xác, tăng cường miễn dịch và nâng cao sức khỏe tổng thể. Cụ thể, khoáng đa lượng như Canxi (Ca) và Magie (Mg) cần thiết cho sự hình thành vỏ và cơ bắp, trong khi các khoáng vi lượng như Kẽm (Zn), Đồng (Cu), Sắt (Fe) đóng vai trò xúc tác cho enzyme, tạo máu và vận chuyển oxy.


24 THG11

GIẢI PHÁP PHÒNG CHỐNG BỆNH ĐỐM TRẮNG - ĐỎ THÂN (WSSV) TRONG NUÔI TÔM

Khi tiết trời vào mùa lạnh, nhiệt độ không khí và môi trường nước xuống thấp là điều kiện thuận lợi cho dịch bệnh đốm trắng (WSSV) hay còn gọi đỏ thân trên tôm bùng phát trên diện rộng, đặc biệt là các khu vực nuôi có độ mặn cao. Và đây là dịch bệnh gây ảnh hưởng nghiêm trọng: Tỷ lệ cảm nhiễm rất cao, Mầm bệnh lây lan rất nhanh, Gây chết 100% nếu phát hiện chậm, Không có phát đồ điều trị hiệu quả khi xảy ra.


21 THG08

QUẢN LÝ KHÍ ĐỘC TRONG AO NUÔI TÔM

Ba loại khí độc phổ biến trong ao tôm là NH3, NO2, H2S. Chúng gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của tôm như làm giảm khả năng hấp thụ oxy, gây stress, chậm lớn và có thể dẫn đến chết hàng loạt. Nguyên nhân chính là do thức ăn thừa, chất thải hữu cơ và quá trình phân hủy trong môi trường ao. 


14 THG06

GIẢI PHÁP PHÒNG VÀ ĐIỀU TRỊ NHIỄM KHUẨN ĐƯỜNG RUỘT TRÊN TÔM

Đường ruột tôm là một trong những cơ quan có vai trò quan trọng nhất trên tôm. Tuy nhiên chúng có cấu tạo đơn giản nên để mẫn cảm với các mầm bệnh. Những bệnh nhiễm khuẩn đường ruột tôm gây ra một số vấn đề khá phổ biến hiện nay như: đứt khúc, viêm đường ruột, phân trắng, trống ruột ... tác động trực tiếp đến năng suất, chất lượng vụ nuôi.


03 THG03

GIẢI PHÁP PHÒNG NGỪA VÀ XỬ LÝ BỆNH TÔM THUỶ TINH (TPD) TRÊN TÔM

Bệnh mờ đục hậu ấu trùng (Translucent Post-Larvae Disease - TPD) hay bệnh tôm thuỷ tinh, là một bệnh mới nổi ảnh hưởng đến tôm thẻ chân trắng Penaeus vannamei, được báo cáo lần đầu vào tháng 3 năm 2020 tại Trung Quốc, với tỷ lệ tử vong cao, đặc biệt ở giai đoạn ấu trùng 4-7 ngày tuổi (PL4-PL7). Bệnh này do một chủng Vibrio parahaemolyticus siêu độc lực, gọi là VpTPD, gây ra, và đã gây thiệt hại kinh tế nghiêm trọng, ảnh hưởng đến hơn 70-80% các trại giống tôm cũng như người nuôi tôm. Bệnh lây lan nhanh và gây tỷ lệ chết lên đến 90% chỉ trong 2-3 ngày, khiến người nuôi gặp thiệt hại lớn.


31 THG05

CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT IgY TIỀM NĂNG VÀ ỨNG DỤNG TRONG NUÔI TRỒNG THỦY SẢN

IgY (immunoglobulin of the yolk) là các globulin miễn dịch mà gà mái sản xuất để bảo vệ gà con trong những tuần đầu tiên của cuộc đời chống lại các mầm bệnh đang xuất hiện. Chúng tương đương với immunoglobulin G trong sữa non của động vật có vú. IgY là một sản phẩm hoàn toàn tự nhiên.


31 THG01

QUY TRÌNH PHÒNG VÀ TRỊ BỆNH HOẠI TỬ GAN TỤY TRÊN TÔM

Bệnh hoại tử gan tụy trên tôm (AHPND) hay còn gọi là hội chứng tôm chết sớm (EMS) liên quan đến việc quản lý môi trường ao nuôi tôm, trong đó nhóm vi khuẩn Vibrio parahaemolyticus là nguyên nhân chính gây bệnh ở tôm và quy trình phòng và trị hiệu quả.


24 THG08

GIẢI PHÁP PHÒNG VÀ ĐIỀU TRỊ BỆNH ĐỐM ĐEN TRÊN TÔM THẺ

Vào mùa mưa và đặc biệt ở các vùng nuôi độ mặn thấp, bệnh đốm đen có cơ hội bùng phát và gây thiệt hại lớn cho đàn tôm: Giảm chất lượng tôm thương phẩm, bán giá thấp. Bệnh diễn biến nhanh, tỷ lệ nhiễm bệnh trên tổng đàn cao. Điều trị không đúng cách dẫn đến hao hụt mẫu lớn, tôm rớt hàng loạt. Đa số người nuôi chưa có quy trình phòng ngừa từ đầu vụ dẫn đến hiệu quả điều trị thấp. Bảng tin kỹ thuật số 10 của công ty TNHH VIBO cung cấp Giải pháp điều chỉnh môi trường và thuốc trộn bổ sung phù hợp với các giai đoạn phát triển của tôm. Giúp phòng ngừa và có phát đồ điều trị hiệu quả, đúng cách, giảm tối đa rủi ro gặp phải do bệnh đốm đen gây hại trên tôm.


09 THG08

GIẢI PHÁP SINH HỌC PHÒNG VÀ KIỂM SOÁT VI BÀO TỬ TRÙNG EHP

Bệnh chậm lớn do vi bào tử trùng (EHP) là bệnh do ký sinh trùng Enterocytozoon hepatopenaei (EHP) gây ra, ký sinh trong gan tụy tôm, cản trở hấp thụ dinh dưỡng và dẫn đến tình trạng tôm chậm lớn, còi cọc. Tôm bệnh thường có vỏ mềm, màu sắc trắng đục hoặc mờ đục, phân đứt khúc và kích cỡ không đồng đều. Bệnh này không gây chết hàng loạt nhưng gây thiệt hại kinh tế lớn do tôm chậm lớn, giảm năng suất nuôi. 


07 THG06

CÔNG NGHỆ HOÁ NHŨ VI BAO - GIẢI PHÁP CHỐNG THẤT THOÁT VÀ GIA TĂNG HIỆU QUẢ TÁC DỤNG CỦA SẢN PHẨM TRONG NTTS

Đóng gói vi bao là kỹ thuật trong đó các hoạt chất rắn, lỏng hoặc khí được đóng gói bên trong vật liệu thứ hai nhằm mục đích che chắn hoạt chất khỏi bao trường xung quanh. Do đó, thành phần hoạt chất được chỉ định là vật liệu cốt lõi trong khi vật liệu xung quanh tạo thành lớp vỏ. Kỹ thuật này đã được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau, từ hóa chất, dược phẩm đến mỹ phẩm và in ấn. Vì lý do này, sự quan tâm rộng rãi đã phát triển đối với công nghệ vi bao.