Tận dụng chuồng heo cũ nuôi ấu trùng ruồi lính đen

10 THG08

Cô Lê Thị Mai, ấp Hòa Hưng, thị trấn Búng Tàu, huyện Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang đã đưa ruồi lính đen vào nuôi thử nghiệm tại chuồng heo cũ của gia đình, bước đầu thu được kết quả khả quan tạo thành mô hình nuôi khép kín.

Năm 2019, do dịch bệnh dịch tả heo Châu Phi bùng phát làm thiệt hại lớn trên đàn heo của gia đình cô. Sau khi được người quen giới thiệu về mô hình nuôi ruồi lính đen là một sinh vật không gây hại, không mang mầm bệnh truyền nhiễm, không cần nhiều diện tích đất nhưng mang lại hiệu quả trong xử lý chất thải nông nghiệp để tạo ra nguồn thức ăn phục vụ chăn nuôi. Với diện tích 40m2 chuồng heo cũ của gia đình và 20 gam trứng ruồi lính đen được người quen cho cô đã đem về nuôi nhân giống.

Theo chân cô Mai, vào thăm khu nuôi, nhân giống và tái đàn ruồi lính đen của gia đình. Cơ sở vật chất để phát triển loài sinh vật này không quá cầu kỳ, bao gồm: bể nuôi ấu trùng được tận dụng từ chuồng heo cũ; các khay nhựa, thùng xốp đựng kén; lồng nuôi ruồi bố mẹ rộng 9m2 để phục vụ tái đàn. Lồng nuôi được thiết kế bằng vải mùng khép kín bên trong có hàng ngàn những chú ruồi lính đen chen chúc nhau. Cô cũng bố trí các giá thể bằng gỗ làm nơi để đàn ruồi chú ẩn, giao phối, sinh sản và đẻ trứng.

Vòng đời ruồi lính đen kéo dài khoảng 40 ngày và chia thành 5 giai đoạn: trứng, ấu trùng, tiền nhộng, nhộng và ruồi trưởng thành. Con trưởng thành sống khoảng 5 đến 8 ngày không ăn chỉ uống để tồn tại, khi thành ruồi sống dưới bóng cây. Giai đoạn ấu trùng được xem là thời kỳ đóng góp tốt cho việc xử lý rác thải, bởi chúng có thể phân hủy hàng tấn nông sản, chế phẩm để phát triển.

Ấu trùng (sâu canxi) thường được sử dụng để xử lý các nguồn phụ, phế phẩm hữu cơ tại nhà hoặc trại chăn nuôi, sinh khối thu được có thể sử dụng làm nguồn thức ăn giàu đạm và canxi cho vật nuôi. Ấu trùng ruồi lính đen trước giai đoạn hóa nhộng có thành phần dinh dưỡng cao gồm: 43 - 51% protein, 15 - 18% chất béo, 2,8 - 6,2% canxi, 1 - 1,2% Photpho, đủ chất dinh dưỡng làm thức ăn chăn nuôi gia súc, gia cầm, thủy sản. Ấu trùng ruồi lính đen được cô Mai sử dụng để làm thức ăn cho cá rô và cá trê. Ngoài ra, phụ phẩm sau khi xử lý bởi ấu trùng ruồi lính đen cô dùng bón cho đất trồng cải tạo đất trồng chanh không hạt.

Cô Mai cho biết: “Việc đầu tư nuôi ruồi lính đen không đòi hỏi về cơ sở vật chất chủ yếu là đảm bảo thức ăn, nước uống đầy đủ. Thức ăn của ruồi lính đen rất đa dạng, chủ yếu là các loại rau, củ, trái cây hư hỏng, thức ăn thừa, các loại phụ, phế phẩm trong nông nghiệp, như: xác đậu nành, cám gạo,…”

Ruồi lính đen là loài côn trùng khá mới mẻ đối với các hộ chăn nuôi trên địa bàn thị trấn Búng Tàu. Tuy nhiên chúng dễ nuôi, phát triển nhanh và đặc biệt ấu trùng đem lại giá trị kinh tế cao  vừa làm thức ăn trong chăn nuôi gia súc, gia cầm, thủy sản, có thể sấy khô phối trộn với các chất dinh dưỡng khác làm thức ăn thay thế hoàn toàn bột cá trong sản xuất thức ăn chăn nuôi, vừa được sử dụng để xử lý chất thải hữu cơ từ các hoạt động nông nghiệp hoặc sản xuất. Ngoài ra, nguồn phụ phẩm sau khi xử lý ấu trùng ruồi lính đen có thể dùng bón cho đất trồng giúp cải tạo đất tăng năng suất cây trồng.

Nguồn: Trần Thị Mai Thiện

https://tepbac.com/tin-tuc/full/tan-dung-chuong-heo-cu-nuoi-au-trung-ruoi-linh-den-30699.html

Ý kiến bạn đọc

Các tin khác

30 THG11

Thuế đối ứng tại Mỹ: Cá tra Việt hưởng lợi, tôm đối mặt thách thức lớn

Xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang Mỹ đang tăng trở lại sau khi mức thuế đối ứng 20% chính thức áp dụng từ tháng 8-2025, mở ra cơ hội lớn cho cá da trơn và một phần thị phần tôm trong năm tới.

26 THG11

Giá thức ăn thủy sản 2025 có xu hướng giảm, hỗ trợ người nuôi phục hồi sản xuất

Tại Hội nghị Quản lý Thức ăn và Sản phẩm xử lý môi trường NTTS do Cục Thủy sản và Kiểm ngư phối hợp Sở NN&PTNT TP. Hồ Chí Minh tổ chức sáng 21/11, các báo cáo cho thấy mặt bằng giá thức ăn thủy sản năm 2025 không tăng so với 2024 và đang có xu hướng giảm.
20 THG11

Thị trường tôm đông lạnh toàn cầu hướng tới tăng trưởng mạnh mẽ đến năm 2035

Thị trường tôm đông lạnh (frozen shrimp) toàn cầu được dự báo sẽ tăng từ khoảng 18.742,6 triệu USD trong năm 2025 lên đến 32.847,3 triệu USD vào năm 2035 — tương đương mức tăng khoảng 75,3% trong 10 năm tới. Tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm (CAGR) được ước tính đạt 5,8% từ 2025 đến 2035.