Kích thích tôm sú tăng trưởng bằng acid hữu cơ

11 THG08

Bổ sung acid hữu cơ trong thức ăn được coi là biện pháp hiệu quả để phòng bệnh, thúc đẩy tăng trưởng và giảm hệ số chuyển đổi thức ăn (FCR), giúp tăng năng suất trong quá trình nuôi.

Tuy nhiên đưa trực tiếp acid hữu cơ hoặc muối của acid hữu cơ vào thức ăn thủy sản, đặc biệt thức ăn công nghiệp thì còn là kỹ thuật hoàn toàn mới. Các acid hữu cơ hoặc muối của acid hữu cơ bổ sung vào thức ăn thủy sản thường bao gồm acid lactic và sodium lactate, acid acetic và sodium acetate, acid propionic và sodium propionate, acid formic và sodium formate hay potassium diformate…

Các nghiên cứu có liên quan đến acid hữu cơ và động vật thủy sản hiện nay chủ yếu tập trung vào khả năng tăng cường hấp thu phospho và các khoáng chất khác. Ngoài ra, chúng còn có các tác dụng khác như: Ức chế sự phát triển của các vi sinh vật gây hại (nấm mốc, nấm men, vi khuẩn gây bệnh) tồn tại trong môi trường sống, trong thức ăn và trong cơ thể của động vật thủy sản. Ngoài ra còn làm giảm pH trong dạ dày, đặc biệt ở ruột non, phân ly trong tế bào vi khuẩn và sự tích lũy các anion muối ức chế sự phát triển của những vi khuẩn gram âm. Bổ sung acid hữu cơ vào thức ăn có thể dẫn đến pH thấp ở tá tràng, cải thiện việc giữ lại nitơ và làm tăng độ tiêu hóa các chất dinh dưỡng từ đó cải thiện tốc độ tăng trưởng và giảm hệ số chuyển hóa thức ăn.

Nghiên cứu ứng dụng acid hữu cơ vào thức ăn của tôm sú để đánh giá hiệu suất tăng trưởng và hiệu quả duy trì chất dinh dưỡng của tôm sú được cho ăn các acid hữu cơ (butyrate, succinate và fumarate) riêng lẻ (10g/kg ) hoặc trong kết hợp (30g/kg ) và nghiệm thức đối chứng không bổ sung acid hữu cơ.

Sau 42 ngày, tỷ lệ sống sót cao hơn đáng kể trong các phương pháp điều trị BUT và bổ sung kết hợp so với nghiệm thức đối chứng.

Bổ sung butyrate, succinate và kết hợp cho thấy hiệu quả sử dụng thức ăn giảm so với nhóm đối chứng (1.3- 1.7 so với 2.4 ở nghiệm thức đối chứng).

Nghiệm thức bổ sung butyrate và bổ sung kết hợp đều có sinh khối cao hơn so với succinate, fumarate và nghiệm thức đối chứng (28,3g  so với 11,2 - 1919g). Kết quả còn cho cho thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa tăng sinh khối và tổng lượng thức ăn trong các phương pháp điều trị chế độ ăn uống. 

Việc bổ sung succinate, butyrate và bổ sung kết hợp làm tăng hiệu quả duy trì chất dinh dưỡng tổng thể so với đối chứng, với butyrate và bổ sung kết hợp hiển thị dinh dưỡng tổng thể cao nhất cho tất cả các chất dinh dưỡng đa lượng được kiểm tra (protein thô = 26,7% và 24,6% so với 15,3 %, tổng lipid = 19,2% và 17,7% so với 10,6%, tro = 25,1% và 23,1% so với 12,1% và tổng năng lượng = 17,7% và 16,3% so với 10,2%). 

Tóm lại, việc bổ sung kết hợp các acid hữu cơ (fumarate, butyrate và succrate) với liều lượng 30 g/kg thức ăn và bổ sung butyrate 10 g/kg đã cải thiện tỉ lệ sống, tăng cường miễn dịch, kích thích tăng trưởng và hiệu quả giữ chất dinh dưỡng ở tôm sú.

Nguồn: tepbac.com

Ý kiến bạn đọc

Các tin khác

28 THG02

Bí mật "siêu năng lực" thay răng của cá linh Thái Bình Dương

Khám phá bí ẩn về khả năng thay răng "chóng mặt" của cá linh Thái Bình Dương - loài cá sở hữu bộ hàm đáng sợ với 555 chiếc răng sắc nhọn.

28 THG02

Cách phân biệt tôm càng xanh và tôm càng sen nhanh chóng, chính xác!

Tôm càng xanh và tôm càng sen không chỉ là những món ăn ngon mà còn đóng vai trò quan trọng trong ngành nuôi tôm. Bài viết dưới đây sẽ giúp bạn phân biệt chúng một cách chi tiết và nhanh chóng, đồng thời chia sẻ cách chọn tôm tươi ngon để đảm bảo khẩu phần hải sản của bạn luôn hấp dẫn.

28 THG02

Nuôi vịt siêu nạc: Chi phí thấp, hiệu quả kinh tế cao - Giải pháp chăn nuôi bền vững

Mô hình chăn nuôi vịt Grimaud siêu nạc, bao gồm ưu điểm, hiệu quả kinh tế và mô hình HTX thành công tại xã Hoàng Tung, Cao Bằng.