Cải thiện năng suất cá diêu hồng bằng chế phẩm sinh học

11 THG11

Ảnh Tepbac

Một nghiên cứu mới đây được xuất bản trên Tạp chí Nuôi trồng Thủy sản Indonesia (JAI) đã kết luận rằng việc bổ sung chế phẩm sinh học và paraprobiotics cho cá rô phi đỏ (cá diêu hồng) có thể cải thiện năng suất cá, tăng đáp ứng miễn dịch và khả năng chống lại bệnh Streptococcus agalactiae.

Probiotic và paraprobiotic là gì?

Probiotics còn được biết là chế phẩm sinh học với các vi khuẩn sống mang lại lợi ích cho cá nuôi. Bacillus spp là một loại vi khuẩn phổ biến được sử dụng làm probiotic. Bacillus spp có thể tồn tại lâu hơn so với các chế phẩm sinh học khác do khả năng chống chịu với nhiệt độ cao.

Tỷ lệ sống của vi sinh vật probiotic trong quá trình chế biến và bảo quản thức ăn vẫn là một thách thức khi sử dụng probiotic. Ho và cộng sự (2017) cho biết số lượng tế bào probiotic trong thức ăn chăn nuôi giảm khoảng 10% sau ba tuần bảo quản. Bởi các tế bào probiotic là vi sinh vật sống dễ bị phá vỡ hoặc giết chết do các yếu tố khác nhau của quá trình sản xuất (de Araújo et al., 2020). Tế bào probiotic chết hoặc không hoạt động được gọi là paraprobiotic (Zendeboodi et al., 2020). Khái niệm về paraprobiotic là việc sử dụng các tế bào probiotic không có khả năng sống sẽ mang lại những lợi ích nhất định cho vật chủ. Paraprobiotic có được từ các vi sinh vật tốt bị mất khả năng tồn tại sau khi tiếp xúc với một số yếu tố có thể thay đổi cấu trúc tế bào của vi sinh vật, chẳng hạn như sự đứt gãy DNA, rối loạn trong màng tế bào…

Bổ sung paraprobiotic Bacillus sp. NP5 cho cá diêu hồng

Nghiên cứu được thực hiện bởi Aldy Mulyadin và cộng sự được thực hiện bằng cách thêm 1% (thể tích/trọng lượng) probiotics hoặc 1% paraprobiotics của Bacillus sp. NP5 vào thức ăn cho cá diêu hồng. Việc bổ sung probiotics và paraprobiotics được thực hiện riêng biệt cho các phương pháp điều trị khác nhau.

Các nhóm cá với 3 phương pháp điều trị và được lặp lại 5 lần với: Nhóm 1: Bổ sung 1% (v/w) probiotic Bacillus sp. NP5; Nhóm 2: Bổ sung 1% (v/w) paraprobiotic Bacillus sp. NP5; Nhóm cá đối chứng: Không bổ sung probiotic hoặc paraprobiotic.

Cá được nuôi trong 30 ngày. Vào ngày nuôi 31, cá được thử thách với vi khuẩn gây bênh liên cầu khuẩn là S. agalactiae (107 CFU / mL) thông qua đường tiêm. Paraprobiotic của Bacillus sp NP5 được tạo ra thông qua quá trình khử hoạt tính bằng nhiệt ở 95°C trong 1 giờ, sau đó thực hiện thử nghiệm khả năng tồn tại trên môi trường thạch TSA và ủ trong 24 giờ.

Trong thời gian 30 ngày nuôi, cá điêu hồng được nuôi bằng men vi sinh và thức ăn bổ sung paraprobiotics có tốc độ tăng trưởng tốt hơn cá được nuôi không bổ sung men vi sinh và paraprobiotics.

Với trọng lượng ban đầu của thí nghiệm khoảng 22 - 23 gam, trọng lượng cuối cùng trung bình của cá điêu hồng là 50 - 51 gam với khối lượng bổ sung hàng ngày là 2,2 - 2,4%. Trong khi cá diêu hồng được cho ăn mà không bổ sung men vi sinh hay paraprobiotics (nhóm cá đối chứng), trọng lượng cuối cùng trung bình chỉ khoảng 45 gam với mức tăng trưởng hàng ngày là 1,9%.

Hiệu suất của việc bổ sung probiotics và paraprobiotics vào thức ăn cũng có thể làm giảm FCR (hệ số chuyển đổi thức ăn). Kết quả cuối cùng của FCR với hai nghiệm thức lần lượt là 1,27 - 1,36. Trong khi đó, FCR trong thức ăn không bổ sung men vi sinh và paraprobiotics có thể đạt 1,52.


Biểu đồ thể hiện tỷ lệ sống của cá diêu hồng với 1 nhóm không thử thách với vi khuẩn gây bệnh (K-), 3 nhóm được tiêm S. agalactiae gây bệnh: Pro (nhóm cá 1 đã được bổ sung 1% probiotic), Para (nhóm cá 2 đã được bổ sung 1% paraprobiotic) và K+ nhóm đối chứng không bổ sung.

Ngoài việc ảnh hưởng đến tăng trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn, việc bổ sung probiotics và paraprobiotics vào thức ăn cũng có thể duy trì tỷ lệ sống của cá. Sau khi cá điêu hồng được thử nghiệm với nhiễm vi khuẩn Streptococcus agalactiae (một loại vi khuẩn thường tấn công cá nuôi) thì tỷ lệ sống (SR) của cá được bổ sung chế phẩm sinh học và paraprobiotics tốt hơn. Con số đó có thể đạt tới 87%.

Nghiên cứu trên cho thấy tiềm năng sử dụng men vi sinh và paraprobiotic từ Bacillus sp NP5 bổ sung vào thức ăn của cá diêu hồng có hiệu quả trong việc tăng năng suất, tỉ lệ sống của cá trước sự lây nhiễm S. agalactiae.

Nguồn: Aldy Mulyadin et al (2021). Growth performance, immune response, and resistance of Nile tilapia fed paraprobiotic Bacillus sp. NP5 against Streptococcus agalactiae infection, Jurnal Akuakultur Indonesia, 16/03/2021.

Nguồn: Lệ Thủy - Tép Bạc

Other news

01 THG12

Xuất khẩu tôm trong tháng 10/2025 đạt cao nhất kể từ đầu năm

Xuất khẩu tôm Việt Nam trong tháng 10/2025 đạt 498 triệu USD, tăng 26% so với cùng kỳ năm ngoái. Đây là một trong những tháng có kim ngạch cao nhất từ đầu năm đến nay, phản ánh nhu cầu vẫn tốt tại các thị trường lớn và DN đẩy nhanh tốc độ giao hàng. Tính từ đầu năm đến hết tháng 10, kim ngạch đạt 3,9 tỷ USD, tăng 22% so với cùng kỳ 2024.

30 THG11

Thuế đối ứng tại Mỹ: Cá tra Việt hưởng lợi, tôm đối mặt thách thức lớn

Xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang Mỹ đang tăng trở lại sau khi mức thuế đối ứng 20% chính thức áp dụng từ tháng 8-2025, mở ra cơ hội lớn cho cá da trơn và một phần thị phần tôm trong năm tới.

20 THG11

Thị trường tôm đông lạnh toàn cầu hướng tới tăng trưởng mạnh mẽ đến năm 2035

Thị trường tôm đông lạnh (frozen shrimp) toàn cầu được dự báo sẽ tăng từ khoảng 18.742,6 triệu USD trong năm 2025 lên đến 32.847,3 triệu USD vào năm 2035 — tương đương mức tăng khoảng 75,3% trong 10 năm tới. Tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm (CAGR) được ước tính đạt 5,8% từ 2025 đến 2035.
19 THG11

Infographic: Xuất khẩu tôm Việt Nam, T1-T10/2025

Xuất khẩu tôm Việt Nam trong tháng 10/2025 đạt 498 triệu USD, tăng 26% so với cùng kỳ năm ngoái. Đây là một trong những tháng có kim ngạch cao nhất từ đầu năm đến nay, phản ánh nhu cầu vẫn tốt tại các thị trường lớn và DN đẩy nhanh tốc độ giao hàng. Tính từ đầu năm đến hết tháng 10, kim ngạch đạt 3,9 tỷ USD, tăng 22% so với cùng kỳ 2024.
13 THG11

Trung Quốc – điểm tựa tăng trưởng của ngành tôm Việt

Theo số liệu của Hải quan Việt Nam, tính đến 15/10/2025, xuất khẩu (XK) tôm Việt Nam sang Trung Quốc và Hồng Kông đạt hơn 1 tỷ USD, tăng 66% so với cùng kỳ năm ngoái. XK tôm sang thị trường này ghi nhận tốc độ tăng trưởng mạnh nhất trong tất cả các thị trường. Và Trung Quốc vẫn duy trì vị trí số 1 về nhập khẩu tôm của Việt Nam, chiếm 28,2% tổng kim ngạch XK tôm của Việt Nam đi các thị trường.

13 THG11

Giá tôm thẻ Ecuador khó giảm trong ngắn hạn

Theo ông Sandro Coglitore, Tổng giám đốc Omarsa – một trong những nhà sản xuất tôm hàng đầu của Ecuador – giá tôm thẻ chân trắng sống sẽ tiếp tục tăng hoặc duy trì ổn định trong thời gian tới, gần như không có khả năng giảm.

12 THG11

Ứng dụng tiến bộ kỹ thuật phát triển nuôi tôm nước lợ bền vững vùng ĐBSCL

Ngành tôm Việt Nam đang giữ vai trò chiến lược khi đóng góp tới 45% giá trị xuất khẩu thủy sản và tạo sinh kế cho hàng triệu hộ dân. Tuy nhiên, biến đổi khí hậu, yêu cầu về chất lượng, truy xuất nguồn gốc và cạnh tranh quốc tế đang đặt ra nhiều thách thức. Mục tiêu phát triển hiện nay không còn là tăng sản lượng mà là nâng cao giá trị, tính bền vững và trách nhiệm môi trường.

12 THG11

Cà Mau nhân rộng mô hình nuôi tôm RAS-IMTA quy mô 1.500 ha

UBND tỉnh Cà Mau vừa ban hành Kế hoạch nhân rộng mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng siêu thâm canh tuần hoàn ít thay nước, an toàn sinh học (RAS-IMTA) với quy mô 1.500 ha, nhằm phát triển nghề nuôi tôm công nghệ cao, bền vững và thân thiện môi trường.