Mô hình tôm - lúa: Có phải là giải pháp phát triển bền vững?

06 THG03

Tuy có xung đột về điều kiện sinh thái giữa con tôm và cây lúa, nhưng trước mắt, trong điều kiện hệ thống thủy lợi chưa hoàn thiện, thì mô hình tôm/lúa là giải pháp tình thể có thế mang lại lợi ích cho người lao động.

Một số biện pháp canh tác nếu được cải thiện như chọn giống thích hợp, tối ưu hóa việc điều tiết hệ thống nước và đào tạo kỹ thuật sẽ giúp mô hình này phát huy hiệu quả cao hơn. Tuy vậy, để phát triển bền vững cần quy hoạch, phát triển các vùng canh tác chuyên canh tôm và lúa.

Mô hình nuôi tôm - lúa là một phương thức canh tác kết hợp giữa nuôi tôm và trồng lúa trên cùng một diện tích đất trong năm. Mô hình này đang được áp dụng ở vùng ven biển (nơi chưa có hoặc có hệ thống thủy lợi nhưng chưa hoàn chỉnh), đặc biệt là ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Đây là mô hình nuôi tận dụng nước mặn trong mùa khô để nuôi tôm và nước ngọt trong mùa mưa để trồng lúa, hoặc tôm và lúa cùng một địa điểm và thời gian.

Mô hình tôm - lúa có hai loại hình canh tác khác nhau: 

- Một vụ tôm/một vụ lúa (luân canh): Mùa khô khi bị xâm mặn thì nuôi tôm, mùa mưa nước nhạt (độ mặn thấp) thì trồng lúa. Lúa sẽ tận dụng bùn thải đáy ao nuôi tôm để phát triển, làm sạch nền đáy cho vụ tôm sau. Tuy vậy, do nền đáy là bùn nhão, mức nước nông nên cũng chỉ nuôi tôm theo hình thức quảng canh hoặc quảng canh cải tiến.

- Trồng lúa kết hợp nuôi tôm (xen canh): Ruộng lúa được cải tạo mương xung quanh hoặc xen vào ô trồng lúa để tăng độ sâu cho nuôi thả tôm. Phương thức nuôi này thực tế vẫn là tôm và lúa tách rời nhau (tôm sống ở mương còn lúa trên mặt ruộng). Tuy có tận dụng được khoảng không gian mặt nước trồng lúa lúc ban đầu, nhưng ít hiêu quả, vì khi lúa tốt thì che phủ và sinh vật đáy làm thức ăn cho tôm cũng hạn chế.

Lợi ích của mô hình tôm - lúa bao gồm:

- Tăng thu nhập cho người dân nhờ việc luân canh, xen canh giữa tôm và lúa, thu hoạch được cả hai loại sản phẩm và tận dụng được tiềm năng diện tích trong điều kiện thiếu đầu tư thủy lợi. Theo báo cáo thì năng suất tôm trong mô hình dao động từ khoảng 200 - 500 kg/ha/vụ và lúa thường đạt khoảng 3 - 6 tấn/ha/vụ.

- Việc luân canh giữa nuôi tôm và trồng lúa giúp cải thiện chất lượng đất, giảm hiện tượng ô nhiễm nền đáy (tận dụng chất thải từ ao nuôi tôm để trồng lúa) từ đó có thể giảm ô nhiễm môi trường nước, hạn chế dịch bệnh và tận dụng chu kỳ có tính mùa vụ tự nhiên (mùa mưa và mùa khô) để canh tác.

Những bất cập:

- Về cơ sở khoa học: Con tôm và cây lúa có điều kiện sống khác nhau. Cây lúa sống trong nước ngọt, đáy bùn giàu chất hữu cơ, mức nước thấp; còn tôm cần nước mặn - lợ, đáy cứng, sạch, mức nước sâu và hàm lượng O2 cao. Do vậy, nếu nuôi xen canh thì tôm và lúa đều sống trong điều kiện sinh thái bất bình thường.

- Mô hình nuôi luân canh phụ thuộc vào điều kiện mùa vụ tự nhiên giữa mùa nước mặn (mùa khô) và mùa nước ngọt (mùa mưa), nếu thời tiết biến đổi thất thường, mùa mưa kéo dài hoặc hạn hán, thì sự luân chuyển giữa tôm và lúa sẽ gặp khó khăn.

- Nếu không quản lý tốt môi trường có thể gây tích tụ mầm bệnh và vi sinh vật có hại ảnh hưởng đến cây lúa và tôm. Đặc biệt, tôm có thể dễ bị nhiễm bệnh khi hệ sinh thái nước thay đổi, không đảm bảo.

- Mô hình tôm - lúa đòi hỏi nông dân phải có kiến thức và kỹ thuật cao trong nông nghiệp và nuôi thủy sản trong việc quản lý chất lượng nước, cải tạo đất, khí tượng thủy văn và quản lý, chăm sóc. Nếu không có sự đào tạo cơ bản, người nông dân sẽ gặp khó khăn trong quá trình canh tác.

- Để có hệ thống canh tác tôm - lúa hiệu quả, nông dân cần đầu tư vào hệ thống ao, mương dẫn nước trong diện tích canh tác của mình, và thiết bị quản lý chất lượng nước sẽ gây áp lực về tài chính đối với những hộ có nguồn vốn hạn chế.

- Nếu sử dụng quá lượng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật hoặc kháng sinh cho mô hình tôm - lúa, môi trường đất và nước có thể bị ô nhiễm, làm giảm chất lượng đất và nước trong dài hạn, ảnh hưởng đến vụ mùa sau.

Xuất xứ và thảo luận

- Theo nghị quyết Số: 09/2000/NQ-CP của Chính Phủ về một số chủ trương và chính sách về chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp ngày 15 tháng 06 năm 2000, “Với các loại đất sản xuất lúa kém hiệu quả thì chuyển sang sản xuất các loại sản phẩm khác có hiệu quả cao hơn, như đất khô hạn chuyển sang trồng màu, đất trũng và đất ven biển chuyển sang nuôi trồng thuỷ sản”, dẫn đến hàng loạt diện tích nông nghiệp, diêm nghiệp kém hiệu quả của các tỉnh ven biển chuyển sang nuôi trồng thủy sản. Do công tác quy hoạch và thủy lợi chưa đáp ứng kịp nên người dân lấy nước mặn, lợ để nuôi thủy sản từ đó hình thành vùng “chồng lấn” và mô hình tôm - lúa phát triển.

- Hiện nay, diện tích nuôi tôm/lúa tại vùng ĐBSCL đạt khoảng 200.000 ha, với sản lượng gần 120.000 tấn mỗi năm. Các tỉnh tập trung phát triển mạnh mô hình này gồm Kiên Giang, Cà Mau, Bạc Liêu và Sóc Trăng. Theo báo cáo, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam đặt mục tiêu đến năm 2030 sẽ mở rộng diện tích tôm - lúa ĐBSCL lên 250.000 ha.

- Theo thống kê thì lợi nhuận thu được trong mô hình tôm/lúa cao hơn trồng chuyên canh lúa từ 5 - 8 lần. Tuy nhiên, nếu so sánh giữa mô hình chuyên lúa, tôm/lúa và chuyên tôm thì mô hình nuôi chuyên tôm sẽ có hiệu quả kinh tế cao hơn rất nhiều, tận dụng được tiềm năng diện tích và chủ động kiểm soát được môi trường sinh thái.

- Theo nghị quyết số 09/2000/NQ-CP của Chính phủ, chỉ có chủ trương chuyển các loại đất sản xuất lúa kém hiệu quả sang sản xuất các loại sản phẩm khác có hiệu quả cao hơn, như đất trũng và đất ven biển chuyển sang nuôi trồng thủy sản. Tuy vậy, nếu chuyển đất nông nghiệp đang canh tác hiệu quả sang nuôi thủy sản sẽ dẫn đến đất bị nhiễm mặn, khó cải tạo để tiếp tục sản xuất nông nghiệp từ đó sẽ ảnh hưởng đến an ninh lương thực.

Về tổng thể, mô hình tôm/lúa chỉ là giải pháp tình thế (trong lúc công tác thủy lợi chưa theo kịp) và chỉ nuôi tôm theo hình thức quảng canh hoặc quảng canh cải tiến. Để phát triển bền vững cần thiết phải đầu tư cải tạo, hoàn thiện hệ thống thủy lợi để tạo vùng chuyên nuôi tôm và vùng chuyên trồng lúa.

Xét đến góc độ sinh học, sinh thái, kinh tế, môi trường và khả năng quản lý sản xuất thì phương thức canh tác chuyên canh tôm và chuyên canh lúa là giải pháp phát triển bền vững. Điều này không những tối ưu hóa về năng suất của từng đối tượng mà còn giảm thiểu những xung đột về sinh thái trong nội tại trong mô hình tôm/lúa/tôm.

Theo (contom.vn - tác giả Anh Vũ)

Other news

01 THG12

Xuất khẩu tôm trong tháng 10/2025 đạt cao nhất kể từ đầu năm

Xuất khẩu tôm Việt Nam trong tháng 10/2025 đạt 498 triệu USD, tăng 26% so với cùng kỳ năm ngoái. Đây là một trong những tháng có kim ngạch cao nhất từ đầu năm đến nay, phản ánh nhu cầu vẫn tốt tại các thị trường lớn và DN đẩy nhanh tốc độ giao hàng. Tính từ đầu năm đến hết tháng 10, kim ngạch đạt 3,9 tỷ USD, tăng 22% so với cùng kỳ 2024.

30 THG11

Thuế đối ứng tại Mỹ: Cá tra Việt hưởng lợi, tôm đối mặt thách thức lớn

Xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang Mỹ đang tăng trở lại sau khi mức thuế đối ứng 20% chính thức áp dụng từ tháng 8-2025, mở ra cơ hội lớn cho cá da trơn và một phần thị phần tôm trong năm tới.

20 THG11

Thị trường tôm đông lạnh toàn cầu hướng tới tăng trưởng mạnh mẽ đến năm 2035

Thị trường tôm đông lạnh (frozen shrimp) toàn cầu được dự báo sẽ tăng từ khoảng 18.742,6 triệu USD trong năm 2025 lên đến 32.847,3 triệu USD vào năm 2035 — tương đương mức tăng khoảng 75,3% trong 10 năm tới. Tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm (CAGR) được ước tính đạt 5,8% từ 2025 đến 2035.
19 THG11

Infographic: Xuất khẩu tôm Việt Nam, T1-T10/2025

Xuất khẩu tôm Việt Nam trong tháng 10/2025 đạt 498 triệu USD, tăng 26% so với cùng kỳ năm ngoái. Đây là một trong những tháng có kim ngạch cao nhất từ đầu năm đến nay, phản ánh nhu cầu vẫn tốt tại các thị trường lớn và DN đẩy nhanh tốc độ giao hàng. Tính từ đầu năm đến hết tháng 10, kim ngạch đạt 3,9 tỷ USD, tăng 22% so với cùng kỳ 2024.
13 THG11

Trung Quốc – điểm tựa tăng trưởng của ngành tôm Việt

Theo số liệu của Hải quan Việt Nam, tính đến 15/10/2025, xuất khẩu (XK) tôm Việt Nam sang Trung Quốc và Hồng Kông đạt hơn 1 tỷ USD, tăng 66% so với cùng kỳ năm ngoái. XK tôm sang thị trường này ghi nhận tốc độ tăng trưởng mạnh nhất trong tất cả các thị trường. Và Trung Quốc vẫn duy trì vị trí số 1 về nhập khẩu tôm của Việt Nam, chiếm 28,2% tổng kim ngạch XK tôm của Việt Nam đi các thị trường.

13 THG11

Giá tôm thẻ Ecuador khó giảm trong ngắn hạn

Theo ông Sandro Coglitore, Tổng giám đốc Omarsa – một trong những nhà sản xuất tôm hàng đầu của Ecuador – giá tôm thẻ chân trắng sống sẽ tiếp tục tăng hoặc duy trì ổn định trong thời gian tới, gần như không có khả năng giảm.

12 THG11

Ứng dụng tiến bộ kỹ thuật phát triển nuôi tôm nước lợ bền vững vùng ĐBSCL

Ngành tôm Việt Nam đang giữ vai trò chiến lược khi đóng góp tới 45% giá trị xuất khẩu thủy sản và tạo sinh kế cho hàng triệu hộ dân. Tuy nhiên, biến đổi khí hậu, yêu cầu về chất lượng, truy xuất nguồn gốc và cạnh tranh quốc tế đang đặt ra nhiều thách thức. Mục tiêu phát triển hiện nay không còn là tăng sản lượng mà là nâng cao giá trị, tính bền vững và trách nhiệm môi trường.

12 THG11

Cà Mau nhân rộng mô hình nuôi tôm RAS-IMTA quy mô 1.500 ha

UBND tỉnh Cà Mau vừa ban hành Kế hoạch nhân rộng mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng siêu thâm canh tuần hoàn ít thay nước, an toàn sinh học (RAS-IMTA) với quy mô 1.500 ha, nhằm phát triển nghề nuôi tôm công nghệ cao, bền vững và thân thiện môi trường.